

Hóa Thạch Tại Thế Giới Đầm Hồ Na Dương
Qua nghiên cứu phân tích bào tử phấn hoa cũng như hóa thạch thực vật đặc biệt là vết in lá, thân, quả cây đã cho thấy tồn tại rừng ẩm ướt nhiệt đới, cận nhiệt đới cây, điều này được chứng minh bằng những di tích thực vật giàu chất nhựa phát triển ở những vùng khí hậu ôn đới ẩm hoặc cận nhiệt đới, nhiệt đới nóng ẩm như: Fagaceae (họ cử): Quercus (sồi); Lauraceae (họ long não); Moraceae (họ dâu tằm); Diospyros (thị); Ficus (đa)… Tại đây, các nhà khảo cổ còn tìm thấy hóa thạch nhiều loại thực vật bậc thấp thuộc ngành xương xỉ.
Hóa Thạch Cổ Thực Vật


Nghiên cứu đới chứa gốc cây tại chỗ tại Moong khai thác cho phép tính toán mật độ cây (600 cây/ha) và chiều cao tán tối đa có thể cao tới 35m. Cả hai giá trị đều giống với giá trị của các khu rừng đầm lầy than bùn ở Đông Nam Á mới đây.
Hóa thach thực vật tại mỏ than Na Dương.
Thực vật bậc thấp: A, C, D, E;
Thực vật bậc cao: B, E, G, H, I, K, L
Mẫu vật thân gỗ hóa thạch tại Thế Giới Đầm Hồ Na Dương
Hóa Thạch Cổ Động Vật
Từ năm 1992, tại bể trầm tích Na Dương, các nhà khảo cổ tìm được hóa thạch của 1 loài cá sấu nhỏ. Kể từ đó có thêm hàng loạt các thu thấp mới. Đến nay, đã thu thập được hóa thạch của Động vật có vú (Thú than, tê giác, linh trưởng), cá sấu (3 đơn vị phân loại), rùa (5 - 6 loài), trai (5 loài), cá nước ngọt (9 loài), nhiều loại ốc khách nhau có những loài vẫn tồn tại đến nay.
* Tê giác
Năm 2013, giáo sư Madelaine Bohme - nhà khoa học người Đức đã tìm thấy mảnh hộp sọ và xương hàm của một loài động vật có vú mới là loài tê giác Epiaceratherium naduongensis. Giải phẫu răng hóa thạch cho phép xác định loài tê giác này có khả năng là một loài động vật sống trong rừng rậm ẩm. Chúng được cho là có ngoại hình khá tương tự với các loài cùng chi đến từ châu Âu Epiaceratherium bolcense và Epiaceratherium magnum. Từ đó, cho thấy sự xâm nhập, `phát tán các loài tê giác ở Đông Nam Á vào lục địa châu Âu vào cuối thế Eocen.

Hóa thạch xương Tê Giác Epiaceratherium naduongensis

Hóa thạch xương hàm linh trưởng Anthradapis vietnamensis
* Thú than
Năm 2013, giáo sư Madelaine Bohme cùng với các cộng sự cùng tìm thấy một mảnh hộp sọ cùng với xương hàm của một loài động vật mới chưa từng xuất hiện trước đó thuộc họ Anthracotheridae (dịch ra nghĩa là thú than). Năm 2015, Stephane Ducrocq - nhà khoa học người Pháp đã xác định lại và đặt tên loài thú than này là Anthracokeryx naduongensis (naduongensis là địa danh Na Dương nơi tìm hóa thạch loài thú than).
Năm 2014, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy hóa thạch của loài thú than phương Đông, có danh pháp khoa học là Bakalovia orientalis. Đây là loài động vật móng guốc giống lợn, có quan hệ họ hàng gần gũi với hà mã, có lối sống bán thủy sinh tại các vùng đầm lầy nước nông ven sông hồ. Hóa thạch của động vật có vú này được tìm thấy có dấu hiệu bị cá sấu tấn công.


Xương sọ Thú than Bakalovia Orientalis
Xương sọ Thú than Bakalovia Orientalis

Hóa thạch xương hàm dưới Thú than Anthracokeryx naduongensis
* Linh trưởng
Tháng 12/2019, các nhà khảo cổ tìm thấy hóa thạch của một loài linh trưởng mũi ướt là Anthradapis vietnamensis (họ Sivaladapidae), đây là một loài vượn cổ đại khá giống vượn cáo ngày nay. Chúng nằm trong số những loài lớn nhất họ, với cân nặng cơ thể khoảng 5,3kg và cho r ằng Anthradapis vietnamensis có thể cung cấp nhiều hiểu biết về họ linh trưởng Sivaladapidae châu Á.
Như vậy, việc tìm ra hóa thạch loài thú than, tê giác và hậu duệ của chúng tại Châu Âu đã thể hiện mối liên hệ sinh học chặt chẽ giữa hệ động vật có vú Eocen ở Na Dương và Châu Âu làm nổi bật tầm quan trọng của Đông Nam Á như “một khu vực nguồn cho sự phân tán động vật có vú xuyên lục địa dọc theo rìa phía bắc đại dương Tethys” và chứng minh rằng các loài động vật có vú tại bể Na Dương loài là tổ tiên của các loài tê giác và Thú than tại Châu Âu.
* Cá sấu
Dấu tích hóa thạch bò sát khai quật được gồm khoảng 50 mẫu cá sấu. Các hóa thạch cá sấu tìm được có kích thước từ 2 - 4m (có cá thể dài 6m). Qua nghiên cứu răng của chúng đã phân biệt được 3 nhóm chính thích nghi sinh thái và chế độ dinh dưỡng khác nhau, gồm một phân loại ăn cá và hai phân loại ăn động vật có vỏ và động vật mai cứng.
Năm 2011, tại Na Dương các nhà khảo cổ đã phát hiện ra hóa thạch một loài cá sấu với bộ xương dài 4m, thuộc nhóm cá sấu mõm dài có tên là Maomingosuchus acutirostris (họ gharial) chuyên ăn cá và đưa ra bằng chứng chúng di cư từ Bắc Phi, Tây Âu sang Đông Á diễn ra vào thời kỳ Eocene.

Tại Na Dương, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy rất nhiều hóa thạch phân cá sấu, bên trong chứa đựng nhiều thông tin về hệ sinh thái động thực vật, động vật và hành vi của các loài cá sấu từng sống tại Na Dương cách đây hơn 30 triệu năm trước.
Hóa thạch hàm và răng cá sấu tại mỏ than Na Dương
Năm 2019, các nhà khảo cổ phát hiện được hóa thạch loài cá sấu dài khoảng 2m chưa từng có trên thế giới là Orientalosuchus naduongensis thuộc loài cá sấu mõm ngắn nhưng rộng, có thể sở hữu lực cắn mạnh dù cơ thể không quá to lớn.
Tại Na Dương, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy rất nhiều hóa thạch phân cá sấu, bên trong chứa đựng nhiều thông tin về hệ sinh thái động thực vật, động vật và hành vi của các loài cá sấu từng sống tại Na Dương cách đây hơn 30 triệu năm trước.


Hóa thạch hộp sọ cá sấu Orientalosuchus naduongensis
Hóa thạch phân cá sấu
* Rùa
Tập hợp rùa tìm được tại Trũng Na Dương khá đa dạng với hơn 100 mẫu (thuộc 5 - 6 loài), bao gồm cả loài thủy sinh (Trionychidae - rùa mai mềm) và loài bán thủy sinh (Geoemydidae - rùa ao). Rùa Trionychidae là loài cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu, di tích rùa Pan – Trionychid ở Na Dương được mô tả và dựa trên một tập hợp các đặc điểm độc đáo đã được xếp vào một chi và loài mới, hiện có cả loài còn sống đến ngày nay.

Hóa thạch rùa tại mỏ than Na Dương
* Cá và các loài nhuyễn thể
Di tích Cá tìm được tại vùng trũng Na Dương rất phong phú nhưng chỉ gặp các loài xương rời, răng rời. Tàn tích của Amiidae (vây cung) xuất hiện thường xuyên ở phần đáy của vỉa than chính. Trong khi họ Cyprinidae (cá chép, cá tuế) có nhiều trong trầm tích hồ, đặc biệt trong hệ tầng Rinh Chùa.
Trong hệ tầng Na Dương và Rinh Chùa cũng tìm thấy rất nhiều tổ hợp nhuyễn thể phong phú cho thấy động vật thân mềm đặc biệt là trai, ốc cũng phát triển mạnh mẽ ở các đầm lầy và hồ. Nổi bật nhất là hóa thạch của loài thân mềm Hai mảnh vỏ (trai) Anodontiform Cristaria motanica xuất hiện với số lượng lớn. Tại nơi đây, loài ốc Viviparidae xuất hiện rất phong phú và có lớp vỏ độ dày tới vài dm.
Như vậy, tập hợp các loài động vật thân mềm, cá cho thấy môi trường cổ đại là đầm lầy, hồ và cho thấy mực nước trong thế Pliocen cao hơn so với mực nước trong thế Miocen muộn. Các lớp đá sa thạch có vết gợn sóng ở mặt cắt địa tầng có thể đã hình thành trong thời gian mực nước thấp hơn



Hóa thạch xương và răng Cá tại mỏ than Na Dương
Hóa thạch ốc tìm được tại Na Dương
Hóa thạch thân mềm Hai mảnh vỏ (Trai) và Chân bụng (Ốc) tại mỏ than Na Dương.