top of page
logo tuyến số 4 CVĐC Lạng Sơn.jpg
1.jpg

Di chỉ khảo cổ Mai Pha

(Mai Pha Archaeological Site)

Địa chỉ: Xã Mai Pha, TP Lạng Sơn

      Di chỉ khảo cổ Mai Pha được công bố đầu tiên vào năm 1920 bởi nhà khảo cổ học người Pháp là H.Mansuy. Tại đây, vào năm 1996 các nhà khảo cổ Việt Nam trong đó có tiến sĩ Nguyễn Cường (nguyên giám đốc bảo tàng lịch sử Quốc Gia) đã khai quật thêm nhiều di vật, dấu tích mộ kè đá, xương răng bị đốt cháy từ đó đã phục dựng lại được một nền văn hóa riêng biệt là Văn hóa Mai Pha. Văn hóa Mai Pha thuộc hậu kì đá mới – sơ kỳ kim khí tồn tại trong khung niên đại 4000 – 3000 năm trước đây, được coi là nền văn hóa quan trọng ở miền núi Đông Bắc Việt Nam.

Âm hưởng của nền văn hóa tiền sử trường tồn trong hang động

Về địa điểm: Di chỉ Mai Pha thuộc địa phận xã Mai Pha, ở ngoại vi thành phố Lạng Sơn. Mai Pha là một hòn núi đá vôi nhỏ, đứng riêng biệt trong thung lũng trồng lúa nước ở phía Nam thành phố Lạng Sơn, cách trung tâm thành phố 5km, cách sông Kỳ Cùng 0,5km về phía Bắc và cách đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn 100m về phía Tây. Mai Pha (tiếng Tày là Phia Nùn nghĩa là núi, mương), nằm ở rìa ngoài hệ sơn khối Bắc Sơn có dáng hình bát úp, đỉnh cao 70m, đường kính chân 150m. Trong lòng núi có một hệ thống hang động với nhiều ngõ ngách, hành lang to nhỏ ở các độ cao khác nhau nhưng quá cao so với chân núi. Phía ngoài có nhiều cửa hang, các cửa hang theo nhiều hướng khác nhau.

Đặc điểm địa hình của di chỉ khảo cổ Mai Pha

1.jpg

Đặc trưng các di vật tìm được tại di chỉ khảo cổ Mai Pha

   Tháng 5 năm 1996, Viện khảo cổ học và Bảo tàng Lạng Sơn đã tiến hành chính thức khai quật Di Chỉ Mai Pha. Tại đây, đã khai quật được 3 hố với diện tích rộng khoảng 80m2 thu được nhiều di vật là công cụ bằng đá, vỏ chai, đồ xương, đồ gốm, di tích bếp, xương người và xương của động vật. Chưa tìm thấy công cụ ghè đẽo và đồ đồng.

   *Về đồ gốm:

        Phát hiện 29.000 mảnh gốm, 3 dọi xe chỉ bằng đất nung, 2 viên bi gốm. Chất liệu là gốm thô pha cát, đôi khi được pha vỏ nhuyễn thể nghiền nhỏ, phần lớn được miết láng mặt ngoài và được phủ màu đỏ bằng thổ hoàng, một số có màu đen.

        Loại hình đồ đựng, đa số là nồi miệng loe tạo eo ở cổ, thân đáy tròn, bát bồng chân cao và một số đồ dựng có gắn quai từ mép miệng loe xuống vai đồ đựng, đồ dựng có núm xuyên lỗ dọc theo chiều trục đứng để xỏ dây mang và đồ dựng có tai ở mép miệng (giống chiếc chảo hiện đại). Đồ gốm Mai Pha được trang trí bởi 3 loại hoa văn là thừng, khắc vạch và trổ lỗ thủng. Văn thừng trên gốm Mai Pha rất tinh xảo, mịn và đẹp. Đặc biệt, hoa văn khắc vạch hình hoa thị kết hợp trổ lỗ thủng tạo thành băng trên chân đế là hoa văn trang trí tiêu biểu nhất của văn hóa Mai Pha.

10 - Đồ trang sức và chân đế, đáy đồ gốm - Copy.jpg
4 - Núm quai, tai đồ gốm và trang trí vặn thừng.jpg

* Về đồ đá

       Các nhà khảo cổ đã tìm được 125 đồ và công cụ bằng đá gồm 69 rìu bôn, 1 đục, 1 bàn đập khắc rãnh, 1 mũi giáo, 9 vòng tay, 3 khuyên tai, 1 hạt chuỗi hình ống, 6 bàn mài, 1 chày, 5 hòn kê đập, 20 hòn cuội nguyên liệu và 8 mảnh tước phế liệu.

      Trong đó, ta thấy rìu bôn tứ giác chiếm số lượng lớn và đạt tới trình độ cao về kĩ thuật chế tạo. Rìu bôn chủ yếu làm từ đá trầm tích hạt mịn, màu đen hoặc xanh nhạt. Tất cả đều được mài nhẵn, đánh bóng, có sử dụng kĩ thuật cưa, đa số có kích thước nhỏ.

* Đồ xương và vỏ nhuyễn thể

       Tại di chỉ Mai Pha đã tìm thấy 7 chiếc rìu bôn có vai làm từ vỏ trai, 4 vỏ ốc biển mài thủng lưng làm chuỗi đeo, 2 dùi xương, 4 đục vũm xương, 1 mảnh xương có văn khắc vạch, 24 đốt sống cá hình trụ có lỗ thủng giữa. Trong đó, rìu bôn có vai làm bằng vỏ trai nước ngọt hầu như chưa gặp trong các văn hóa đồng đại khác ở Việt Nam.

6 - Rìu bôn tứ giác, rìu có vai.jpg
Bàn mài, rìu bôn bằng vỏ trai.jpg

* Di cốt động vật, di tích bếp, di cốt người, mộ kè đá

      Các di cố xương răng động vật ở Mai Pha có 6.336 tiêu bản. Ngoài các loài động vật hoang dã như khỉ, lợn rừng, sơn dương, nai, hươu, voi, nhím, dúi, sóc, cây và  một số động vật nuôi như chó, lợn, trâu. Vỏ các loài nhuyễn thể có 30 mảnh vỏ trai lớn, hơn 11kg ốc các loại, chủ yếu là ốc nước ngọt loài Melania đã chặt đít. Trên xương cốt động vật hoang dã có vết đập, vết chặt hoặc đốt cháy.

       Di tích bếp được tìm thấy ở địa điểm Mai Pha (còn có Phia Điểm, Phai Vệ 2) có đặc điểm chung là đống than tro, chu vi hình gần tròn, đường kính từ 1 – 2m, dày ở giữa và mỏng dần ở xung quanh. Đáng chú ý là đã tìm thấy mộ kè đá trong hang và di cốt người cổ Mai Pha. Di cốt tìm được ở dạng vỡ. Xương răng tìm thấy bị sâu và bị mòn hơn cư dân Hòa Bình.

Đặc trưng các di vật tìm được tại di chỉ khảo cổ Mai Pha

    Những di tích và di vật thu được trong đợt khai quật 1996 ở di chỉ Mai Pha là cơ sở đầu tiên để xác lập văn hóa Mai Pha. Mai Pha thuộc phạm trù hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí, cách nay khoảng 4.000-3.000 năm.

   Qua nghiên cứu di cốt người có thể thấy rằng cư dân văn hóa Mai Pha mang đặc trưng chủng tộc Mogoloid, tuy vẫn còn đan xen những nét Autraloid. Có khả năng họ là hậu duệ của người Indonesien vốn tồn tại phổ biến trong văn hóa Bắc Sơn.

   Cư dân văn hóa Mai Pha sống trong các hang động hoặc mái đá. Các hang đã tách dần khỏi vùng sơn khối đá vôi Bắc Sơn chuyển dần về phía nam và phía đông nam.

   Cộng đồng xã hội chưa phát triển, họ sống quần cư tạo thành từng nhóm nhỏ phân tán sống trong hang đá theo đơn vị hộ gia đình, giữa các hộ gia đình liên kết với nhau theo huyết tộc.

   Đời sống kinh tế của cư dân Mai Pha chủ yếu dựa vào nền kinh tế hỗn hợp là săn bắt, hái lượm, thủ công và đã xuất hiện hình thức trao đổi sản phẩm. Đặc biệt, cư dân văn hóa Mai Pha đã thuần hóa được lợn, trâu, chó để phục vụ cho đời sống.

    Người cổ đại Mai Pha đã có cảm thụ nhất định về nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật trang trí. Trình độ kỹ thuật tạo hoa văn và tư duy mỹ cảm của người thợ gốm là khá cao.

      Cư dân văn hoá Mai Pha đã xác lập tín ngưỡng tâm linh đối với người đã mất thể hiện qua việc chôn cất người mất trong hang đá.

13 - Người cổ đại Mai Pha.jpg
Mat-trong-dong-Viet-Nam_edited.png
bottom of page